Tóm tắt nội dung báo cáo thực tập quản tri kinh doanh về Giải pháp đẩy mạnh công tác cứu trọ đột xuất ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010
LỜI MỞ ĐẦUPhát huy truyền thống tương thân, tương ái, “lá lành đùm lá rách, lá rách ít đùm lá rách nhiều”. CTXH nói chung và CTĐX xuất nói riêng cho những người chịu thiệt thòi, không may rơi vào hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. CTĐX được xác định là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm dảm bảo tính cân đối giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Là một lĩnh vực của đời sống xã hội, CTĐX mang những đặc trưng cơ bản: tổng hợp chính trị - kinh tế - xã hội - quốc phòng - an ninh; trực tiếp giúp đỡ hàng triệu người và gia đình mỗi khi gặp khó khăn hoạn nạn.
Ở một đất nước mà hàng năm luôn phải hứng chịu hậu quả của nhiều đợt thiên tai, bão lũ, hạn hán; hàng triệu người rơi vào hoàn cảnh thiếu đói, mất người thân, mất tài sản, mất nhà ở, mất phương tiện sản xuất…thì CTĐX là một hoạt động không thể thiếu được. Để giữ vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội cần đăc biệt có chính sách hỗ trợ nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai, cứu đói, giúp nhân dân sớm ổn định đời sống và sản xuất.
Giai đoạn 2000 - 2005 là giai đoạn mà mỗi năm trung bình có từ 4 - 6 cơn bão lớn kèm theo mưa, lũ cộng với rất nhiều đợt hạn hán, sạt lở đất làm chết hàng trăm người, cuốn trôi tài sản và nhà ở của hàng nghìn gia đình gây cảnh thiếu đói ở nhiều vùng, địa phương. Trước tình hình đó, công tác CTĐX nhìn chung đã được tổ chức thực hiện tương đối tốt, đạt được nhiều thành tựu to lớn, song vẫn còn nhiều hạn chế và thiếu sót cần phải tiếp tục được nghiên cứu và khắc phục trong thời gian tới.
Giai đoạn tới, 2006 - 2010 là giai đoạn được dự báo là tình hình thời tiết sẽ có nhiều biến động bất thường, công tác cứu trợ cần phải được tổ chức kịp thời và hiệu quả hơn nữa. Do đó, Đề tài “Một số giải pháp đẩy mạnh công tác cứu trợ đột xuất ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010” xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, góp phần đẩy mạnh hơn nữa công tác CTĐX ở Việt Nam. Mặc dù đã được sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của các Thây cô giáo và cán bộ hướng dẫn thực tập nhưng do phạm vi hiểu biết còn hạn chế, đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót. Bởi vậy em rất mong nhận được những góp ý của các Thầy cô giáo để đề tài có thể hoàn thiện hơn.
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng phân tích các vấn đề thực trạng của chính sách xã hội, đặc biệt là chính sách CTĐX kết hợp với số liệu và thông tin của ngành Lao động - Thương binh - Xã hội.
Đề tài được chia làm 3 chương:
Chương I: Vai trò của CTXH đột xuất trong phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam.
Chương II: Thực trạng và kết quả công tác CTXH đột xuất trong thời gian qua 2000 – 2005.
Chương III: Phương hướng và một số giải pháp đẩy mạnh công tác CTXH đột xuất trong thời gian tới 2006 – 2010.
Em xin chân thành cảm ơn !
CHƯƠNG I
VAI TRÒ CỦA CỨU TRỢ XÃ HỘI ĐỘT XUẤT TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1. Cứu trợ xã hội
Cứu trợ xã hội là một trong những hoạt động có từ lâu trong lịch sử nhân loại, thể hiện bản chất nhân đạo vốn có của con người trong việc xử lý các mối quan hệ xã hội. CTXH là một trong những nội dung cơ bản của chính sách xã hội. Vì vậy CTXH bao giờ cũng được đề cập tới, khi ít khi nhiều trong chính sách của hầu hết các quốc gia trong mọi thời đại. Sự phát triển phong phú của công tác CTXH là thước đo trình độ văn minh và tiến bộ của một chế độ xã hội.
CTXH có nguồn gốc ngữ nghĩa từ 2 nhóm từ ghép là Cứu tế xã hội và Trợ giúp xã hội.
* Cứu tế xã hội:
Trong tiếng Hán, chữ tế có nghĩa là giúp, cứu tế xã hội là cứu giúp cho các thành viên trong xã hội khi họ gặp phải rủi ro hoặc bất hạnh nào đó mà cuộc sống bị đe doạ nghiêm trọng, nếu không có sự cứu tế thì họ và gia đình có thể bị nguy hại đến cuộc sống, có thể dẫn đến cái chết (chết đói, chết bệnh…). Cứu tế xã hội, vì vậy mang tính tức thời, tính “cấp cứu” nhằm giúp cho đối tượng tạm thời thoát khỏi tình cảnh hiểm nghèo. Cứu tế xã hội có thể bằng tiền hoặc hiện vật, trong nhiều trường hợp, cứu tế bằng hiện vật có ý nghĩa thiết thực hơn. Cứu tế xã hội chủ yếu giúp cho những đối tượng trong một hoàn cảnh nào đó không thể tự lo được cuộc sống cho bản thân và gia đình (trong một thời điểm hoặc một khoảng thời gian nào đó). Ví dụ, sự cứu giúp của xã hội cho những người già cô đơn không còn khả năng lao động, không có bất kỳ nguồn thu nhập nào để trang trải cuộc sống thường ngày. Hoặc những người bị thiên tai mất hết hoa màu, tài sản và các phương tiện sinh sống, cộng đồng và xã hội phải cứu tế cho họ ngay tại thời điểm đó, nếu không cuộc sống của họ sẽ bị đe doạ nghiêm trọng, họ có thể bị chết đói, chết khát hoặc chết vì dịch bệnh.
Như vậy, cứu tế xã hội có thể hiểu là sự giúp đỡ nhất thời bằng tiền hoặc hiện vật cho những đối tượng gặp rủi ro, bất hạnh đột xuất hoặc không thể tự lo liệu được cuộc sống, nhằm giúp họ thoát ngay ra khỏi tình trạng nguy kịch, đời sống bị đe doạ nghiêm trọng.
* Trợ giúp xã hội:
Trợ giúp xã hội là sự giúp đỡ thêm bằng tiền, hiện vật hoặc các điều kiện vật chất và tinh thần khác của cộng đồng và xã hội cho các đối tượng khi họ gặp phải khó khăn hoặc sa sút nào đó. Mặc dù họ vẫn cố gắng để tự lo liệu cuộc sống, nhưng nếu không có sự giúp đỡ thì cuộc sống của họ ngày càng trở nên khó khăn và dễ rơi vào cảnh bần cùng. Trợ giúp xã hội nhằm tạo cho đối tượng có cơ hội khắc phục và giảm bớt hậu quả rủi ro tự vươn lên đảm bảo cuộc sống của mình, sớm hoà nhập trở lại với đời sống chung của cộng đồng.
Như vậy có thể nói, trợ giúp xã hội là sự giúp đỡ của Nhà nước vừa có tính tức thời, vừa có tính lâu dài, mà lâu dài là chủ yếu, cho các thành viên của mình khi họ gặp phải rủi ro, bất hạnh nào đó trong cuộc sống. Trong thực tế, hầu hết các hoạt động của CTXH là hoạt động trợ giúp xã hội (về cả phạm vi và quy mô giúp đỡ). Chính vì vậy, nhiều khi trợ giúp xã hội được hiểu đồng nghĩa với CTXH.
Tóm lại:
- CTXH hiểu một cách tổng quát nhất là sự giúp đỡ của Nhà nước, cộng đồng và xã hội, bằng các biện pháp và hình thức khác nhau cho các thành viên của cộng đồng khi họ gặp phải những khó khăn, rủi ro hoặc bất hạnh trong cuộc sống do những nguyên nhân khác nhau.
- CTXH là một trong những bộ phận hợp thành hệ thống chính sách xã hội của Nhà nước. Đó là những chế độ chính sách, biện pháp nhằm chăm sóc, cứu giúp những người, hoặc một bộ phận dân cư gặp rủi ro, bất hạnh trong cuộc sống dẫn đến một phần hoặc toàn bộ sức lao động, hoặc mất một phần hoặc toàn bộ tài sản…có thêm điều kiện vượt qua khó khăn, tự mình đảm bảo cuộc sống, hoà nhập cộng đồng.
CTXH gồm ba bộ phận công tác lớn:
1- CTTX: đối tượng chủ yếu là người già cô đơn, trẻ em mồ côi, trẻ em lang thang, người tàn tật.
2- CTĐX: đối tượng là những người gặp thiên tai, địch hoạ, gặp rủi ro trong cuộc sống, những người bị thiếu đói giáp hạt (chủ yếu là hậu quả của thiên tai).
3- Tổ chức cải hoá nhằm nâng đỡ tạo điều kiện cho những người lầm lỡ, không may sa vào các tệ nạn xã hội như: mại dâm, nghiện hút, xin ăn…trở lại cuộc sống bình thường.
2. Cứu trợ đột xuất và công tác cứu trợ đột xuất
2.1. Khái niêm
Xem thêm nhiều tài liệu báo cáo thực tập tại Tailieumau.vn
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét